Tác giả: Mỹ Tâm
Cập nhật: 04/09/2025

Nội dung

Hôn nhân là nền tảng của gia đình và xã hội, được pháp luật bảo vệ nhằm đảm bảo quyền lợi của cả hai vợ chồng cũng như con cái. Tuy nhiên, trong thực tế, không ít trường hợp ngoại tình xảy ra ngay trong thời gian hai bên đang tiến hành thủ tục ly hôn, làm nổi lên những tranh cãi về đạo đức và pháp lý. Liệu hành vi này có bị coi là vi phạm pháp luật hay không? Nếu có, người vi phạm sẽ phải chịu những chế tài gì?

Căn cứ khoản 14 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì: “Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án.” Theo đó, quan hệ vợ chồng chỉ chấm dứt đúng pháp luật khi ly hôn và phải có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án, không phụ thuộc vào việc vợ chồng đã không còn sống chung một nhà hay còn tình cảm với nhau hay không. Do đó, ta có thể hiểu rằng, khi chưa có một bản án, quyết định có hiệu lực của tòa án công nhận việc ly hôn của hai bên thì quan hệ vợ chồng vẫn tồn tại về mặt pháp lý.

Từ đó, khi vẫn đang tồn tại quan hệ vợ chồng với một người mà ngoại tình, đi chung sống như vợ chồng với người khác là hành vi bị cấm theo pháp luật. Tùy tính chất, mức độ vi phạm mà hành vi này có thể bị xử phạt như sau:

TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ KHI VỢ HOẶC CHỒNG NGOẠI TÌNH KHI ĐANG THỰC HIỆN THỦ TỤC LY HÔN
TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ KHI VỢ HOẶC CHỒNG NGOẠI TÌNH KHI ĐANG THỰC HIỆN THỦ TỤC LY HÔN

– Xử lý vi phạm hành chính

Căn cứ khoản 1 Điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP, quy định:

“1.Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:

a) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;

b) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác;

c) Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;

d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;

đ) Cản trở kết hôn, yêu sách của cải trong kết hôn hoặc cản trở ly hôn.

– Trách nhiệm hình sự

Căn cứ theo Điều 182 Bộ Luật Hình sự 2015 quy định về tội vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng.

“1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:

a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;

b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;

b) Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.”

Như vậy, người có hành vi ngoại tình có thể bị xử phạt vi phạm hành chính từ 03 đến 05 triệu đồng hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự với khung hình phạt đến 03 năm tù. Tuy nhiên trong thực tế hành vi ngoại tình thường chỉ được giải quyết theo phương pháp dân sự là chấm dứt hôn nhân, hoặc chỉ được xử lý ở mức độ hành chính, vẫn ít có vụ án liên quan đến vấn đề hình sự. Nguyên nhân chính là hạn chế trong việc thu thập chứng cứ, khung hình phạt cho loại tội phạm không cao và tâm lý của người bị hại.

Ngoài ra, nếu một bên vợ hoặc chồng ngoại tình khi ly hôn có thể ảnh hưởng đến việc giành quyền nuôi con do ảnh hưởng đến đánh giá tư cách đạo đức của cha/mẹ, nếu một bên có hành vi ngoại tình, đặc biệt khi điều đó ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình hoặc khiến họ bỏ bê con cái, Tòa án có thể xem đây là yếu tố bất lợi khi xét quyền nuôi con; Ảnh hưởng đến ý kiến của con (nếu từ 7 tuổi trở lên) theo khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, nếu con từ 7 tuổi trở lên, Tòa án sẽ xem xét nguyện vọng của con, nếu con cảm thấy tổn thương hoặc không muốn sống với người ngoại tình, điều này có thể là yếu tố quan trọng khiến Tòa án quyết định giao con cho bên còn lại…

Ngoại tình không phải là yếu tố tuyệt đối quyết định quyền nuôi con, nhưng nếu hành vi này làm ảnh hưởng đến đạo đức, tâm lý, môi trường sống và trách nhiệm chăm sóc con, Tòa án có thể xem đây là yếu tố bất lợi khi xét xử. Ngược lại, bên còn lại có thể tận dụng điều này để chứng minh rằng mình là người có đủ điều kiện tốt hơn để nuôi con.

TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ KHI VỢ HOẶC CHỒNG NGOẠI TÌNH KHI ĐANG THỰC HIỆN THỦ TỤC LY HÔN

 

Khuyến cáo

Bài viết này chỉ nhằm mục đích cung cấp các thông tin chung và không nhằm cung cấp bất kỳ ý kiến tư vấn pháp lý cho bất kỳ trường hợp cụ thể nào. Các quy định pháp luật được dẫn chiếu trong nội dung bài viết có hiệu lực vào thời điểm đăng tải bài viết nhưng có thể đã hết hiệu lực tại thời điểm bạn đọc. Do đó, chúng tôi khuyến nghị bạn luôn tham khảo ý kiến của chuyên gia trước khi áp dụng.

Các vấn đề liên quan đến nội dung hoặc quyền sở hữu trí tuệ liên của bài viết, vui lòng gửi email đến info@bigbosslaw.com.

Bigboss Law là một công ty luật tại Việt Nam có kinh nghiệm và năng lực cung cấp các dịch vụ tư vấn liên quan đến Giải quyết tranh chấp. Vui lòng tham khảo về dịch vụ của chúng tôi Giải quyết tranh chấp và liên hệ với đội ngũ luật sư tại Viêt Nam của chúng tôi thông qua email info@bigbosslaw.com.

Chia sẻ:
0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận

YÊU CẦU TƯ VẤN

THÔNG TIN
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x