1. Bối cảnh ban hành Nghị quyết 68
Tinh thần của Nghị quyết 68 xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, nhất là sau một thời gian dài xảy ra tình trạng hình sự hóa các quan hệ dân sự, kinh tế, gây tâm lý lo sợ, e dè trong hệ thống hành chính, đặc biệt ở cấp cơ sở. Tư tưởng “Không phải cứ sai là có tội” là một bước tiến mới trong nhận thức pháp lý của nhà nước ta. Việc cán bộ công chức mắc sai phạm không đồng nghĩa họ phải chịu trách nhiệm hình sự, bởi pháp luật Việt Nam hiện hành đã có các công cụ khác như xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính, hoặc kiểm điểm trách nhiệm phù hợp với tính chất lỗi. Cụ thể, Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 (sửa đổi năm 2020) tại Điều 3 đã nêu rõ nguyên tắc: mọi hành vi vi phạm hành chính phải được xử lý nghiêm minh, khách quan, đúng pháp luật, phù hợp với tính chất, mức độ vi phạm. Điều này mở ra cơ chế linh hoạt cho các cơ quan có thẩm quyền trong xử lý vi phạm mà không nhất thiết phải sử dụng biện pháp hình sự.
Khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 (sửa đổi năm 2020):
“1. Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính bao gồm:
a) Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và phải bị xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật;
b) Việc xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành nhanh chóng, công khai, khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp luật;
c) Việc xử phạt vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, đối tượng vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng;
d) Chỉ xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính do pháp luật quy định. Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần. Nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì mỗi người vi phạm đều bị xử phạt về hành vi vi phạm hành chính đó. Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính hoặc vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm, trừ trường hợp hành vi vi phạm hành chính nhiều lần được Chính phủ quy định là tình tiết tăng nặng;
đ) Người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính. Cá nhân, tổ chức bị xử phạt có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp chứng minh mình không vi phạm hành chính;
e) Đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân.”
2. Trách nhiệm công vụ và xử lý kỷ luật
Thêm vào đó, Luật Cán bộ, công chức năm 2008 (sửa đổi 2019) cũng khẳng định nguyên tắc xử lý trách nhiệm công vụ theo hướng phù hợp với mức độ, hậu quả của hành vi. Điều này cho thấy, chỉ những trường hợp có dấu hiệu của tội phạm – như cố ý làm trái, vụ lợi, gây hậu quả nghiêm trọng – mới cần áp dụng chế tài hình sự. Việc vận dụng linh hoạt các hình thức xử lý không chỉ giúp bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm mà còn góp phần xây dựng bộ máy hành chính hiệu quả, năng động và sáng tạo hơn.
Điều 9 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 (sửa đổi 2019) quy định về Nghĩa vụ của cán bộ, công chức trong thi hành công vụ:
“1. Thực hiện đúng, đầy đủ và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
2. Có ý thức tổ chức kỷ luật; nghiêm chỉnh chấp hành nội quy, quy chế của cơ quan, tổ chức, đơn vị; báo cáo người có thẩm quyền khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; bảo vệ bí mật nhà nước.
3. Chủ động và phối hợp chặt chẽ trong thi hành công vụ; giữ gìn đoàn kết trong cơ quan, tổ chức, đơn vị.
4. Bảo vệ, quản lý và sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài sản nhà nước được giao.
5. Chấp hành quyết định của cấp trên. Khi có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp luật thì phải kịp thời báo cáo bằng văn bản với người ra quyết định; trường hợp người ra quyết định vẫn quyết định việc thi hành thì phải có văn bản và người thi hành phải chấp hành nhưng không chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành, đồng thời báo cáo cấp trên trực tiếp của người ra quyết định. Người ra quyết định phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình.
6. Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.”
Không thể phủ nhận rằng, trong một số vụ việc, cán bộ đã lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi cá nhân, gây thiệt hại lớn cho Nhà nước và xã hội. Những hành vi như vậy chắc chắn phải bị xử lý nghiêm minh theo quy định tại Bộ luật Hình sự, như tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ tại Điều 356 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tuy nhiên, điều quan trọng là phải phân biệt rõ giữa lỗi cố ý và lỗi vô ý; giữa hành vi có mục đích tư lợi và hành vi do thiếu kinh nghiệm, do hoàn cảnh khách quan hoặc chưa có quy định pháp luật hướng dẫn cụ thể. Việc đánh giá đúng bản chất hành vi, từ đó chọn hình thức xử lý phù hợp không chỉ là yêu cầu về mặt pháp lý mà còn là trách nhiệm chính trị của hệ thống chính quyền các cấp, nhằm giữ vững niềm tin của cán bộ vào cơ chế điều hành và bảo vệ những người làm đúng.
Điều 356 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):
“1. Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ gây thiệt hại về tài sản từ 10.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại khác đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Gây thiệt hại về tài sản từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.
3. Phạm tội gây thiệt hại về tài sản 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm.
4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.”
3. Gợi mở cho tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền
Tinh thần thượng tôn pháp luật không đồng nghĩa với sự máy móc trong áp dụng pháp luật. Pháp luật luôn có tính người và tính thực tiễn. Nếu xử lý không đúng bản chất, quy chụp hoặc hình sự hóa mọi hành vi sai phạm, sẽ dễ dẫn đến hậu quả ngược: triệt tiêu động lực làm việc, hình thành tâm lý sợ sai, sợ trách nhiệm trong đội ngũ cán bộ, công chức – nhất là những người ở vị trí phải quyết định nhanh chóng và sáng tạo. Để tránh tình trạng này, hệ thống pháp luật phải hoàn thiện theo hướng rõ ràng hơn, minh bạch hơn, đồng thời các cơ quan thực thi pháp luật phải có năng lực phân tích pháp lý sâu sắc để đánh giá đúng sai phạm một cách công tâm, khách quan.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không chỉ là việc tạo ra hệ thống luật pháp đầy đủ mà còn là việc đảm bảo cho mỗi quyết định pháp lý đều được thực hiện đúng người, đúng việc và đúng thời điểm. “Không phải cứ sai là có tội” – câu nói tưởng chừng giản dị nhưng hàm chứa một nguyên tắc cốt lõi trong nền pháp quyền hiện đại: đó là phân biệt giữa hành vi vi phạm và hành vi phạm tội, giữa trách nhiệm hành chính và trách nhiệm hình sự, và giữa người dám làm sai vì cái chung và kẻ cố ý trục lợi cá nhân.
4. Tổng đài tư vấn pháp luật qua điện thoại
Nếu quý khách hàng còn có thắc mắc hay câu hỏi nào cần được tư vấn từ luật sư. Quý khách vui lòng liên hệ vào số Hotline 0978 333 379 để được luật sư tư vấn. Trân trọng cảm ơn!