1. Người nghiện bị xem là tội phạm – quan điểm pháp lý rõ ràng
Theo Đạo luật về Lạm dụng ma túy (Misuse of Drugs Act – MDA) năm 1973 của Singapore, mọi hành vi sử dụng, tàng trữ, buôn bán hay sản xuất ma túy đều bị xử lý nghiêm minh. Nếu một cá nhân được phát hiện dương tính với ma túy, dù chưa có hành vi phạm tội nào khác, người đó vẫn có thể bị bắt giữ, giam giữ trong các trung tâm cải huấn và áp dụng chương trình cai nghiện bắt buộc.
Đáng chú ý, Điều 8(b) của MDA, việc sử dụng bất kỳ loại chất bị kiểm soát hoặc chất chỉ định nào (như cần sa, cocaine, ketamine) đều là hành vi phạm tội và Điều 22 của MDA quy định rõ nếu phát hiện thấy một loại chất được kiểm soát trong mẫu nước tiểu được xét nghiệm của một người, thì người đó được coi là đã sử dụng loại chất được kiểm soát đó, trừ khi người đó có thể chứng minh việc sử dụng này là không tự nguyện. Điều 8A của MDA quy định rằng bất kỳ công dân hoặc thường trú nhân Singapore nào sử dụng ma túy ở nước ngoài và bị phát hiện qua xét nghiệm nước tiểu đều có thể bị xử lý như thể họ đã phạm tội tại Singapore.
Nếu bị kết tội, mức án tối thiểu là một năm tù, tối đa là 10 năm, cùng bị phạt roi, cộng với khoản tiền phạt không quá 20.000 SGD. Hình phạt sẽ được xác định tùy thuộc vào việc người đó có tiền án về các tội danh tương tự hay từng được đưa vào cơ sở cai nghiện ma túy hay không. Nếu một người bị nghi ngờ đã sử dụng chất được kiểm soát hoặc chất chỉ định, người đó có thể được yêu cầu cung cấp mẫu nước tiểu hoặc tóc để xét nghiệm. Không cung cấp mẫu là hành vi phạm tội và có thể bị phạt tù từ 1 đến 10 năm và phạt tiền tối đa 20.000 SGD.
Điểm đặc biệt trong mô hình Singapore là việc kết hợp giữa trừng phạt và phục hồi. Các trung tâm cải huấn không chỉ tập trung cai nghiện mà còn đào tạo kỹ năng sống, giáo dục đạo đức, hỗ trợ việc làm sau tái hòa nhập. Chính phủ Singapore có các chương trình hậu cải tạo để giám sát và giúp đỡ người từng nghiện, tránh tái phạm. Theo thống kê, tỷ lệ tái nghiện tại Singapore thuộc hàng thấp nhất châu Á nhờ mô hình “hành pháp – trị liệu – giám sát” chặt chẽ.
2. So sánh với Việt Nam và bài học kinh nghiệm
Nếu so sánh với Việt Nam, hiện tại pháp luật Việt Nam đã có xu hướng nhân văn hơn khi xem người nghiện là người bệnh. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy việc xử lý người nghiện còn thiếu hiệu quả và có nguy cơ tái nghiện cao. Luật Phòng, chống ma túy 2021 đã tăng cường biện pháp cai nghiện bắt buộc và kiểm soát người sử dụng ma túy trái phép, song vẫn cần có hệ thống hỗ trợ phục hồi tương đương với mô hình Singapore để đảm bảo hiệu quả lâu dài.
Tại Việt Nam, pháp luật hiện hành cũng đã có những quy định cụ thể về việc quản lý và cai nghiện ma túy. Theo Điều 27 của Luật Phòng, chống ma túy năm 2021, người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi trở lên khi xác định là nghiện ma túy thì có nghĩa vụ khai báo và thực hiện các biện pháp cai nghiện theo quy định của pháp luật. Đối với những trường hợp không tự nguyện cai nghiện, Điều 32 và Điều 33 cho phép áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc tại cơ sở cho các đối tượng được quy định tại hai điều luật này. Việc theo dõi và quản lý người nghiện cũng được quy định rõ tại Điều 34, theo đó cơ quan có thẩm quyền sẽ lập hồ sơ quản lý đối với người sử dụng trái phép chất ma túy và thực hiện giám sát, hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng sau khi hoàn thành cai nghiện. Tuy nhiên, trên thực tế, các biện pháp hậu cai nghiện tại Việt Nam chủ yếu vẫn mang tính hình thức như yêu cầu tự báo cáo định kỳ, tham gia sinh hoạt cộng đồng hoặc giám sát xã hội, mà chưa có cơ chế cưỡng chế, xử lý mạnh tay như mô hình Singapore. Điều này dẫn đến khó khăn trong việc ngăn ngừa tái nghiện cũng như đảm bảo hiệu quả công tác phòng, chống ma túy trên diện rộng.
Khoản 1 và Khoản 5 Điều 27 Luật Phòng, chống ma túy năm 2021:
“1. Xác định tình trạng nghiện ma túy được thực hiện đối với người thuộc trường hợp sau đây:
a) Người sử dụng trái phép chất ma túy đang trong thời gian quản lý bị phát hiện sử dụng trái phép chất ma túy;
b) Người sử dụng trái phép chất ma túy không có nơi cư trú ổn định;
c) Người đang trong thời gian bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn do có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy hoặc trong thời hạn 01 năm kể từ ngày chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn do có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy mà bị phát hiện sử dụng trái phép chất ma túy;
d) Người đang trong thời gian quản lý sau cai nghiện ma túy bị phát hiện sử dụng trái phép chất ma túy;
đ) Người tự nguyện xác định tình trạng nghiện ma túy.
5. Người được đề nghị xác định tình trạng nghiện ma túy có quyền và trách nhiệm sau đây:
a) Được bảo đảm danh dự, nhân phẩm; hỗ trợ đi lại, ăn ở, điều trị hội chứng cai và các bệnh kèm theo trong thời gian xác định tình trạng nghiện ma túy;
b) Chấp hành nội quy, quy chế của cơ sở xác định tình trạng nghiện ma túy; khai báo trung thực với nhân viên y tế về tiền sử sử dụng ma túy, các biểu hiện của việc sử dụng ma túy;
c) Người từ đủ 18 tuổi trở lên hoặc cha, mẹ, người giám hộ hoặc người đại diện hợp pháp của người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi quy định tại các điểm a, b, c và đ khoản 1 Điều này khi nhận được kết quả xác định là nghiện ma túy có trách nhiệm đăng ký cai nghiện ma túy tự nguyện theo quy định tại Điều 28 của Luật này hoặc đăng ký điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế trong trường hợp nghiện các chất dạng thuốc phiện với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú.”
Điều 32 Luật Phòng, chống ma túy năm 2021 quy định về đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
“Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
1. Không đăng ký, không thực hiện hoặc tự ý chấm dứt cai nghiện ma túy tự nguyện;
2. Trong thời gian cai nghiện ma túy tự nguyện bị phát hiện sử dụng trái phép chất ma túy;
3. Người nghiện ma túy các chất dạng thuốc phiện không đăng ký, không thực hiện hoặc tự ý chấm dứt điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế hoặc bị chấm dứt điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế do vi phạm quy định về điều trị nghiện;
4. Trong thời gian quản lý sau cai nghiện ma túy mà tái nghiện.”
Điều 33 Luật Phòng, chống ma túy năm 2021: Cai nghiện ma túy cho người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi
“1. Người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Không đăng ký, không thực hiện hoặc tự ý chấm dứt cai nghiện ma túy tự nguyện;
b) Trong thời gian cai nghiện ma túy tự nguyện bị phát hiện sử dụng trái phép chất ma túy;
c) Người nghiện ma túy các chất dạng thuốc phiện không đăng ký, không thực hiện hoặc tự ý chấm dứt điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế hoặc bị chấm dứt điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế do vi phạm quy định về điều trị nghiện.
2. Người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có trách nhiệm sau đây:
a) Tuân thủ các quy định về cai nghiện ma túy bắt buộc, nội quy, quy chế và chịu sự quản lý, giáo dục, điều trị của cơ sở cai nghiện bắt buộc;
b) Tham gia các hoạt động điều trị, chữa bệnh, giáo dục, tư vấn, học văn hóa, học nghề, lao động trị liệu và các hoạt động phục hồi hành vi, nhân cách.
3. Thời hạn cai nghiện ma túy bắt buộc đối với người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi là từ đủ 06 tháng đến 12 tháng.
4. Việc đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc do Tòa án nhân dân khu vực quyết định và không phải là biện pháp xử lý hành chính.
5. Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định trình tự, thủ tục Tòa án nhân dân xem xét, quyết định việc đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.”
Điều 34 Luật Phòng, chống ma túy năm 2021: Lập hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi
“1. Việc lập hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi được thực hiện như sau:
a) Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú hoặc có hành vi vi phạm trong trường hợp không xác định được nơi cư trú lập hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;
b) Trường hợp người nghiện ma túy do công an khu vực hoặc công an cấp tỉnh phát hiện hoặc trong quá trình điều tra, thụ lý các vụ việc vi phạm pháp luật mà đối tượng là người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi thuộc diện đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thì cơ quan công an đang thụ lý vụ việc tiến hành xác minh, thu thập tài liệu và lập hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người đó;
c) Hồ sơ đề nghị bao gồm biên bản vi phạm, bản tóm tắt lý lịch, tài liệu chứng minh tình trạng nghiện ma túy hiện tại của người đó, bản tường trình của người nghiện ma túy hoặc của người đại diện hợp pháp của họ, ý kiến của cha, mẹ, người giám hộ hoặc người đại diện hợp pháp;
d) Công an cấp xã có trách nhiệm giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp thu thập các tài liệu và lập hồ sơ đề nghị quy định tại điểm a khoản 1 Điều này.
4. Hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân khu vực xem xét, quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc bao gồm:
a) Hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc quy định tại điểm c khoản 1 Điều này;
b) Văn bản của Trưởng phòng Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội khu vực về việc đề nghị xem xét đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Trong nội dung văn bản của Trưởng phòng Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội phải nêu ý kiến về bảo vệ quyền trẻ em.
5. Hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi phải được đánh bút lục và được lưu trữ theo quy định của pháp luật về lưu trữ.
6. Chính phủ quy định chi tiết việc lập hồ sơ đề nghị đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; chế độ cai nghiện ma túy áp dụng đối với người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi.”
3. Bài học rút ra
Từ những phân tích trên, bài học mà Việt Nam có thể rút ra là cần xây dựng một cơ chế pháp luật đồng bộ hơn, kết hợp giữa phòng ngừa – xử lý – phục hồi – giám sát hậu cai. Đồng thời, nên xem xét việc điều chỉnh chính sách theo hướng cưỡng chế kiểm soát có điều kiện thay vì chỉ dựa vào tự nguyện, đặc biệt với nhóm đối tượng đã từng tái nghiện nhiều lần hoặc có nguy cơ gây rối trật tự công cộng. Việc học hỏi mô hình Singapore không có nghĩa là sao chép hoàn toàn, mà là lựa chọn các công cụ pháp lý phù hợp với điều kiện Việt Nam, trên tinh thần đề cao an ninh cộng đồng và quyền được phục hồi của người nghiện.
4. Tổng đài tư vấn pháp luật qua điện thoại
Nếu quý khách hàng còn có thắc mắc hay câu hỏi nào cần được tư vấn từ luật sư. Quý khách vui lòng liên hệ vào số Hotline 0978 333 379 để được luật sư tư vấn. Trân trọng cảm ơn!