“Nợ” là một vấn đề khá nhức nhối trong xã hội. Chủ nợ có quyền đòi nợ và con nợ phải có trách nhiệm thanh toán các khoản nợ. Tuy nhiên, hiện nay các đối tượng lợi dụng sự bất cẩn, thiếu hiểu biết của người dân để thực hiện các hành vi đe doạ, quấy rối bằng các cuộc điện thoại, tin nhắn đòi nợ nhằm chiếm đoạt tài sản của người dân.
1. Khái niệm Hợp đồng vay tài sản
Theo quy định tại Điều 463 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì “hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay, khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.”
Nghĩa vụ trả nợ của bên vay tài sản cũng được thể hiện rất rõ tại Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015, bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn. Nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Như vậy, trong trường hợp bản thân không xác lập bất cứ một hợp đồng vay tài sản nào từ bên cho vay thì không làm phát sinh nghĩa vụ trả nợ.
2. Làm gì khi bị đòi nợ từ người lạ
Thứ nhất, Trước hết cần phải bình tĩnh xử lý, giải thích ngắn gọn về việc không quen biết người vay hoặc không có trách nhiệm với khoản nợ mà các đối tượng đề cập; đồng thời, hỏi rõ thông tin đơn vị đòi nợ, nhắc nợ và yêu cầu cung cấp các chứng từ, hợp đồng, thông tin về việc vay nợ của mình (nên ghi âm cuộc gọi, lưu tin nhắn để làm bằng chứng).
Thứ hai, Thông báo, hướng dẫn cách xử lý cho người thân, bạn bè, đồng nghiệp của mình khi bị các đối tượng đòi nợ gọi điện, nhắn tin làm phiền với nội dung như trên.
Thứ ba, Sử dụng tính năng có sẵn trên điện thoại để chặn các cuộc gọi, tin nhắn làm phiền của các đối tượng đòi nợ. Đối với các trang Facebook cá nhân có thể khóa các bình luận của người lạ.
Thứ tư, Nếu tình trạng bị làm phiền kéo dài, thậm chí đến mức bị “khủng bố” điện thoại, người dân có thể trình báo đến cơ quan Công an nơi gần nhất để có biện pháp xử lý kịp thời.
Thứ năm, Tuyệt đối không cung cấp các thông tin của bản thân cho các đối tượng gọi điện đòi nợ như: thông tin về giấy tờ tuỳ thân, quan hệ gia đình, đồng nghiệp, bạn bè, nơi làm việc, sinh sống…
3. Hành vi đòi nợ trái quy định pháp luật bị xử lí như thế nào
3.1 Xử lí hành chính
Căn cứ theo quy định tại khoản 4 Điều 12 Luật Viễn thông năm 2009 thì các hành vi bị cấm trong hoạt động viễn thông như sau:
Đưa thông tin xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân.
Do đó, hành vi quấy rối qua điện thoại với những nội dung rất khiếm nhã thì chính là hành vi vi phạm pháp luật và bị pháp luật nghiêm cấm.
Tùy vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi nhắn tin quấy rối mà hành vi này có thể chỉ bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Căn cứ theo quy định tại Điều 7 Nghị định 144/2021/NĐ-CP Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình quy định như sau:
– Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
+ Có cử chỉ, lời nói thô bạo, khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác
Đồng thời, theo quy định tại Điều 102 Nghị định 15/2020/NĐ-CP của Chính phủ Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện: Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm
3.2: Xử lí hình sự
– Hành vi quấy rối, làm phiền người khác có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội làm nhục người khác (Điều 155 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017) hoặc vu khống người khác (Điều 156 BLHS), tùy vào mức độ, tính chất và có đủ căn cứ, hành vi quấy rối qua điện thoại sẽ bị xử lý hình sự theo các tội danh quy định tại Bộ luật Hình sự.
– Khoản 1, Điều 170 Bộ luật Hình sự quy định: Người nào đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Do đó, hành vi nhắn tin, gọi điện chửi rủa, bôi nhọ, lăng mạ, khủng bố tinh thần nhằm mục đích đòi tiền như trong tình huống nêu trên là có dấu hiệu của tội Cưỡng đoạt tài sản quy định tại Điều 170 Bộ luật Hình sự và mức hình phạt cao nhất của tội này là 20 năm tù.