
Người chưa thành niên có quyền tham gia các giao dịch dân sự nhưng phạm vi và điều kiện được pháp luật quy định chặt chẽ. Việc hiểu rõ những quy định này giúp bảo vệ quyền lợi của họ và đảm bảo tính hợp pháp của các giao dịch phát sinh.
I/ Khái niệm người chưa thành niên:
Cụm từ “người chưa thành niên” không còn quá xa lạ đối với mọi người. Đối tượng này vẫn hiện hữu quanh chúng ta, họ có thể là con, là em, là cháu hoặc là những đứa trẻ hàng xóm. Tuy nhiên, không phải ai cũng phân biệt được và hiểu được bản chất của đối tượng này khi tham gia vào quan hệ pháp luật.
Căn cứ theo quy định của pháp luật hiện nay tại khoản 1 Điều 21 Bộ luật Dân sự 2015 quy định như sau: “Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi”. Như vậy, cứ những ai dưới 18 tuổi đều là người chưa thành niên.
Đối tượng này còn khá nhỏ và chưa có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Vì vậy, khi xác lập giao dịch dân sự cần có nhiều điều đáng để lưu ý, trách trường hợp giao dịch bị vô hiệu do chủ thể thực hiện không đúng.
Một số quan hệ pháp luật mà người chưa thành niên có thể tham gia: Mua bán, trao đổi tài sản để phục vụ sinh hoạt hằng ngày; Nhận tặng cho/thừa kế/chuyển nhượng tài sản; Quan hệ lao động phù hợp với lứa tuổi; Gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng,…
II/ Quy định về năng lực pháp luật của người chưa thành niên:
Theo Điều 16 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự. Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết.”
Người chưa thành niên (cá nhân) có các quyền và nghĩa vụ dân sự sau đây:
+ Quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân gắn với tài sản
+ Quyền sở hữu, quyền thừa kế và quyền khác đối với tài sản
+ Quyền tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó.
Năng lực pháp luật dân sự của người chưa thành niên (cá nhân) không bị hạn chế, trừ trường hợp luật có quy định.
III/ Quy định về năng lực hành vi dân sự của người chưa thành niên:
Tùy vào từng độ tuổi của người chưa thành niên để xác định giao dịch dân sự của người chưa thành niên. Cụ thể như sau:
1. Với người chưa đủ 6 tuổi
Giao dịch dân sự của người chưa thành niên trong trường hợp này sẽ do người đại diện theo pháp luật của người đó xác lập, thực hiện. Trong đó, người đại diện theo pháp luật của cá nhân là con chưa thành niên là cha, mẹ.
Như vậy, giao dịch dân sự của người chưa thành niên dưới 6 tuổi sẽ do cha, mẹ của người này thực hiện. Tuy nhiên, nếu giao dịch đó được thực hiện để đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người đó thì sẽ không bị vô hiệu theo quy định của khoản 2 Điều 125 Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Với người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi
Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật trừ các loại giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi của người từ đủ 06 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi.
3. Với người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến 18 tuổi
Với đối tượng này, người chưa thành niên từ đủ 15 – 18 tuổi có thể tự mình thực hiện, xác lập giao dịch dân sự trừ các loại giao dịch liên quan đến bất động sản hoặc động sản phải đăng ký và các loại giao dịch khác mà quy định của pháp luật yêu cầu người đại diện phải đồng ý.
Ngoài ra, khi thực hiện các giao dịch dân sự thì giao dịch dân sự phải đáp ứng điều kiện có hiệu lực nêu tại Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015 gồm:
+ Chủ thể có năng lực hành vi dân sự phải phù hợp với các loại giao dịch được xác lập;
+ Việc tham gia giao dịch dân sự phải hoàn toàn tự nguyện;
+ Nội dung, mục đích của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội;
+ Nếu hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của loại giao dịch mà người chưa thành niên thực hiện thì giao dịch dân sự này phải đáp ứng điều kiện đó.
IV/ Hậu quả pháp lý nếu giao dịch vi phạm quy định về năng lực hành vi dân sự:
Người chưa thành niên tự mình xác lập các giao dịch dân sự chưa đủ điều kiện để giao dịch theo quy định pháp luật thì giao dịch dân sự có có thể bị vô hiệu.
Theo Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu như sau:
+ Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.
+ Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.
+ Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.
+ Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
+ Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.