
1.Khái niệm về hợp đồng thương mại điện tử.
Căn cứ theo Điều 33 Luật Giao dịch điện tử năm 2005 quy định như sau: “Hợp đồng điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu theo quy định của Luật này”.
Trong đó, thông điệp dữ liệu được hiểu là “thông tin được tạo ra, được gửi đi, được nhận và được lưu trữ bằng phương tiện điện tử”. Nó được thể hiện dưới hình thức “trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác”. Hợp đồng thương mại điện tử cũng là hợp đồng điện tử nhưng nó được tiến hành trong hoạt động thương mại hay cụ thể hơn là trong hoạt động thương mại điện tử. Hoạt động thương mại điện tử có thể hiểu là “việc tiến hành một phần hoặc toàn bộ quy trình của hoạt động thương mại bằng phương tiện điện tử có kết nối với mạng internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở khác”.
Như vậy, dựa theo các quy định trên, có thể hiểu hợp đồng thương mại điện tử như sau: “Hợp đồng thương mại điện tử là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ trong lĩnh vực thương mại, được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu và có kết nối mạng.”
2.Thực trạng pháp luật về hợp đồng thương mại điện tử ở Việt Nam.
Thương mại điện tử hình thành và phát triển đã tạo nên một bước đột phá lớn trong công cuộc kết nối không dây về thương mại trên toàn thế giới. Ở Việt Nam, thương mại điện tử xuất hiện tương đối muộn. Mặc dù đã có nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh về giao dịch điện tử, hoạt động thương mại điện tử, website thương mại điện tử. Tuy nhiên, thực tế cho thấy vấn đề về hợp đồng thương mại điện tử vẫn còn nhiều vướng mắc, bất cập.
Thứ nhất, những vướng mắc về mặt chủ thể trong hợp đồng thương mại điện tử, thành lập và cung cấp thông tin website. Để có thể xác định một chủ thể có đủ năng lực chủ thể hay không là rất khó, do các bên tham gia giao dịch hợp đồng thương mại điện tử chỉ thông qua các phương tiện điện tử, không gặp mặt trực tiếp nên không thể biết được đối tác của mình có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự hay không. Hợp đồng mà hai bên ký kết có được an toàn và đảm bảo mà không xảy ra rủi ro. Đó là những vướng mắc, trở ngại rất lớn của các bên trước khi tiến đến giao kết một hợp đồng thương mại điện tử.
Để bảo vệ người tiêu dùng, pháp luật yêu cầu website thương mại điện tử phải cung cấp thông tin liên quan đến chủ thể kinh doanh, hàng hóa, dịch vụ cung ứng website… Tuy nhiên, vẫn còn xuất hiện tình trạng nhiều website chưa cung cấp đầy đủ các thông tin cơ bản về thương nhân.
Thứ hai, vướng mắc về thực hiện nghĩa vụ đóng thuế trong thương mại điện tử. Mặc dù pháp luật hiện hành đã quy định khá đầy đủ về đối tượng, mức thuế suất và phương thức kê khai, nộp thuế đối với các giao dịch thương mại điện tử tại Việt Nam. Nhưng trên thực tế, các cơ quan thuế chỉ quản lý được các doanh nghiệp kinh doanh thương mại điện tử có đăng ký, còn các doanh nghiệp không đăng ký và đặc biệt là các cá nhân kinh doanh lĩnh vực này hiện nay rất khó quản lý và kiểm soát. Trên thực tế hiện nay, có rất nhiều cá nhân bán hàng qua mạng xã hội, có đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị và các phương tiện kinh doanh, đồng thời có nguồn thu nhập ổn định. Tuy nhiên, việc kiểm soát và thu thuế đối với những trường hợp này gặp nhiều khó khăn, do các quy định pháp luật hiện hành còn bỏ ngỏ.
Thứ ba, pháp luật chưa có quy định rõ ràng để điều chỉnh cho hợp đồng thương mại điện tử theo mẫu. Một thực tế khác cho thấy, chiếm đa số các vấn đề giao kết hợp đồng trực tuyến được tiến hành thông qua website thương mại điện tử bán hàng của các doanh nghiệp hoặc là các sàn giao dịch thương mại điện tử mà những website, những sàn giao dịch đó lại là của các nhà cung cấp trung gian, hay là thư điện tử tuy thực tế đa số vẫn thường sử dụng hợp đồng mẫu nhưng bởi vấn đề giao kết sẽ có thể được trao đổi trực tiếp giữa hai bên, tạo nên được sự tương tác với khách hàng, kết hợp với chức năng đặt hàng trực tuyến của website hoặc là thông qua những hợp đồng truyền thống được đưa lên website từ đó giao kết cũng sẽ trở nên yên tâm hơn, tuy vậy đó vẫn là hợp đồng mẫu. Những hợp đồng mẫu do thương nhân soạn sẵn đa dạng và không có tiêu chí chung, việc thể hiện ý chí của các bên, nhất là người tiêu dùng còn hạn chế và khả năng tiềm ẩn rủi ro cao.
Thứ tư, chưa có quy định hay hướng dẫn về “tài sản ảo”. Trong những năm gần đây, tài sản ảo đã trở thành một trong những chủ đề “nóng” và phổ biến ở Việt Nam, điển hình là trào lưu phát triển các phần mềm trò chơi trực tuyến, các game online có vật phẩm mang giá trị quy đổi thành tiền và giao dịch thông qua ngân hàng hay một hệ thống tự tạo trước đó… Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, tài sản bao gồm “Vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Như vậy, vấn đề đặt ra là “tài sản ảo” có phải là tài sản và bằng cách nào để xác định được đây là một loại tài sản mà pháp luật cần phải xem xét chẳng hạn như: Tính pháp lý hay về mặt giá trị của tài sản ảo.
Trên thực tế cho thấy việc giao dịch mua bán các tài sản này trên các nền tảng diễn ra rất phổ biến, nhưng hiện tại pháp luật vẫn chưa có quy định hay hướng dẫn xác định thế nào là tài sản ảo và tài sản ảo trong quan hệ hợp đồng thương mại điện tử được điều chỉnh như thế nào. Do tính phức tạp trong lĩnh vực công nghệ nên việc giám sát và giải quyết tranh chấp liên quan đến những vấn đề mua bán, chuyển nhượng tài sản ảo trong các trò chơi trực tuyến nói riêng và tài sản ảo nói chung là vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn và tiến hành một cách cẩn thận để đảm bảo vừa tuân thủ pháp luật vừa phải phù hợp với điều kiện thực tế.
Thứ năm, chưa có các quy định về công chứng hợp đồng thương mại điện tử. Công chứng đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm an toàn về mặt pháp lý đối với các hợp đồng hay giao dịch dân sự, kinh tế… Có quan điểm cho rằng, Luật GDĐT đã có quy định về giá trị pháp lý của việc chứng thực chữ ký điện tử, chữ ký số nên nội dung hợp đồng thương mại điện tử đã được xác thực, do đó, vai trò của công chứng hợp đồng thương mại điện tử lúc này là không cần thiết. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, chứng thực chữ ký điện tử là việc xác nhận cơ quan, tổ chức, cá nhân được chứng thực là người ký chữ ký điện tử chứ không xác thực được tính hợp pháp về nội dung của hợp đồng. Đây là hai vấn đề không giống nhau.
3.Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng thương mại điện tử ở Việt Nam
Từ những bất cập và hạn chế nêu trên, chúng tôi đề xuất một số giải pháp và hướng hoàn thiện về hợp đồng thương mại điện tử như sau:
Một là, đẩy mạnh công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong quan hệ thương mại điện tử có hiệu quả. Đầu tiên, chúng ta cần phải đặc biệt quan tâm đến vấn đề hiển nhiên nhất và cũng là quan trọng nhất chính là nâng cao nhận thức và ý thức pháp luật của các chủ thể trong quan hệ thương mại điện tử.
Hai là, nâng cao nhận thức các chủ thể trong việc thực hiện nghĩa vụ về thuế. Để hạn chế thấp nhất tình trạng chủ thể tham gia không hiểu nên không thực hiện và trốn thuế.
Ba là, Nhà nước cần xây dựng và ban hành các quy định pháp luật để điều chỉnh, hướng dẫn cụ thể cho việc giao kết và thực hiện hợp đồng theo mẫu trên các website thương mại điện tử.
Bốn là, thực hiện nghiên cứu và đề xuất ban hành quy định pháp luật điều chỉnh đối với tài sản ảo. Tài sản ảo hiện nay đã thật sự đóng vai trò quan trọng không chỉ đối với người chơi hay các nhà cung cấp dịch vụ mà nó còn nhiều liên quan đến các vấn đề thực tế xã hội khác, chính vì vậy đòi hỏi pháp luật cần phải đưa ra những sự điều chỉnh hợp lý cho vấn đề này.
Năm là, đề xuất xây dựng quy định cho công chứng hợp đồng thương mại điện tử. Pháp luật Việt Nam hiện nay đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hợp đồng thương mại điện tử. Tuy nhiên, vấn đề công chứng hợp đồng thương mại điện tử, pháp luật chưa có quy định cụ thể .
4.Tổng đài tư vấn pháp luật qua điện thoại
Nếu quý khách hàng còn có thắc mắc hay câu hỏi nào cần được tư vấn từ luật sư. Quý khách vui lòng liên hệ vào số Hotline 0978 333 379 để được luật sư tư vấn. Trân trọng cảm ơn!






